Logistics không chỉ “nối dài” cánh tay cho xuất khẩu, mà còn đóng vai trò tiên phong trong chuỗi giá trị, từ việc thu mua nguyên liệu, lưu trữ, phân phối tới tối ưu hóa hậu cần.
Kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng nhanh chóng, đưa nước ta lọt nhóm 20 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng ấy, ngành logistics vẫn đang phải “gồng gánh” với chi phí cao, năng lực hạn chế và sự phụ thuộc lớn vào các dịch vụ nước ngoài.

Theo số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), trong số 6 nền kinh tế phát triển nhất Đông Nam Á, chỉ số Logistics Performance Index (LPI – chỉ số đo lường hiệu suất logistics) của Việt Nam hiện chỉ đạt 3,3 trên thang điểm 5, tương đương Philippines và chỉ cao hơn Indonesia.
Đáng chú ý, hiện chi phí logistics của Việt Nam hiện chiếm gần 17% GDP – cao gần gấp đôi so với mức bình quân toàn cầu (khoảng 8-10%). Trong khi đó, cơ sở hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, khả năng kết nối giữa các phương thức vận tải chưa hiệu quả, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, hạn chế còn đến từ việc mức độ trưởng thành trong ứng dụng khoa học công nghệ – chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang ở mức thấp.
“Năng lực logistics nội địa chưa đáp ứng đủ yêu cầu vận hành cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là ở khâu kết nối giữa sản xuất – kho bãi – vận chuyển quốc tế”, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong đánh giá.
Theo bà Đặng Hồng Nhung, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), số lượng trung tâm logistics đã tăng rất mạnh và về quy mô cũng như phạm vi phân bổ, sự phát triển trung tâm logistics trong giai đoạn vừa qua còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Việt Nam chưa hình thành được những trung tâm logistics quốc gia và thậm chí là của các khu vực mà có vai trò dẫn dắt thị trường, dẫn dắt các quy hoạch logistics của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển logistics không còn là lựa chọn mà đã trở thành một nhiệm vụ chiến lược. Logistics không chỉ “nối dài” cánh tay cho xuất khẩu, mà còn đóng vai trò tiên phong trong chuỗi giá trị, từ việc thu mua nguyên liệu, lưu trữ, phân phối tới tối ưu hóa hậu cần.
Theo các chuyên gia kinh tế, một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là hệ thống hạ tầng logistics còn phân tán, thiếu đồng bộ. Theo thống kê, trong số hơn 35.000 doanh nghiệp dịch vụ logistics tại Việt Nam có trên 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ có khoảng 10% đủ sức cạnh tranh khu vực. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu phải tự tổ chức khâu vận chuyển, kho bãi, làm tăng chi phí đầu vào từ 5-7% so với mức tối ưu.
Hệ thống cảng biển – một mắt xích quan trọng trong chuỗi logistics dù đã được đầu tư nhưng còn thiếu kết nối đường sắt, đường bộ và trung tâm logistics hậu cần. Tại khu vực Cái Mép – Thị Vải, các bến cảng hiện đại đã đi vào hoạt động nhưng tỷ lệ hàng trung chuyển vẫn thấp, đa phần hàng hóa phải đưa lên cảng Singapore, Hong Kong để đi tiếp.
Không chỉ hạ tầng, vấn đề cơ chế và thủ tục hành chính cũng khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Việc thông quan hàng hóa dù đã áp dụng một cửa quốc gia nhưng vẫn còn thủ tục lặp đi lặp lại giữa các bộ ngành. Thời gian thông quan lâu, ảnh hưởng tới tốc độ giao thương.
Theo các chuyên gia kinh tế, trước hết, cần quy hoạch lại các trung tâm logistics theo vùng – địa phương. Các cụm công nghiệp lớn như Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh… cần có trung tâm logistics vệ tinh để rút ngắn quãng đường vận chuyển. Đồng thời, cần phát triển mạnh logistics xanh – ứng dụng công nghệ AI, IoT, Blockchain trong quản lý kho bãi, vận chuyển để tiết giảm nhiên liệu, đảm bảo tính bền vững.
Bên cạnh đó, nhà nước cần thiết kế các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào logistics nội địa. Các chính sách về miễn thuế nhập khẩu thiết bị, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, quỹ phát triển logistics cần đi vào thực chất và dễ tiếp cận. Đồng thời nước ta cần có cơ chế kết nối giữa doanh nghiệp xuất khẩu và đơn vị logistics.
Ở góc độ doanh nghiệp, nhiều chủ doanh nghiệp cho rằng, nâng tầm logistics không chỉ để rút ngắn thời gian giao hàng, giảm chi phí đầu vào, mà còn là cách để nâng cao niềm tin đối tác, đưa hàng Việt vươn xa một cách bền vững. Chỉ khi giải quyết được tận gốc điểm nghẽn về hạ tầng, chính sách và công nghệ trong ngành logistics, xuất khẩu Việt Nam mới có thể bước vào giai đoạn tăng trưởng chất lượng cao với tư cách là mắt xích chủ động trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo Congly.vn